Biến dạng là gì? Các công bố khoa học về Biến dạng
Biến đạng (variable) là một khái niệm trong lập trình để lưu trữ và đại diện cho một giá trị hoặc thông tin nào đó. Mỗi biến được đặt tên để có thể truy cập và ...
Biến đạng (variable) là một khái niệm trong lập trình để lưu trữ và đại diện cho một giá trị hoặc thông tin nào đó. Mỗi biến được đặt tên để có thể truy cập và sử dụng giá trị trong đoạn code. Biến có thể thay đổi giá trị trong quá trình thực thi chương trình.
Biến đạng là một vùng trong bộ nhớ được cấp phát để lưu trữ giá trị hoặc thông tin trong quá trình thực thi chương trình. Mỗi biến có một kiểu dữ liệu (int, float, string, boolean, etc.) mô tả loại dữ liệu mà biến có thể chứa.
Khi một biến được khai báo, chương trình sẽ dự trữ một vùng trong bộ nhớ để lưu trữ giá trị mà biến đại diện. Ví dụ, nếu bạn khai báo biến "age" với kiểu int và gán giá trị là 25, một vùng nhớ sẽ được dành riêng để lưu trữ giá trị 25.
Bạn có thể thay đổi giá trị của biến thông qua các phép gán. Ví dụ, nếu bạn gán giá trị 30 cho biến "age", giá trị trong vùng nhớ của biến "age" sẽ được thay đổi thành 30.
Biến cũng có thể được sử dụng để lưu trữ dữ liệu nhập từ người dùng, kết quả tính toán, kết quả trả về từ một phương thức, và nhiều tác vụ khác trong quá trình thực thi chương trình.
Một biến có thể được khai báo và sử dụng trong một phạm vi cục bộ hoặc toàn cục của chương trình. Phạm vi cục bộ chỉ tồn tại trong phạm vi của một khối code nhất định, trong khi phạm vi toàn cục tồn tại trong toàn bộ chương trình.
Biến đạng giúp chúng ta lưu trữ và sử dụng dữ liệu một cách linh hoạt và tiện lợi trong quá trình lập trình.
Để sử dụng biến trong lập trình, ta phải thực hiện các bước sau:
1. Khai báo biến: Đầu tiên, ta cần khai báo biến bằng cách đặt tên và kiểu dữ liệu của nó. Ví dụ, để khai báo một biến kiểu số nguyên (int) có tên "age", ta sẽ viết: "int age;".
2. Gán giá trị cho biến: Sau khi khai báo biến, ta có thể gán giá trị cho biến thông qua phép gán "=" hoặc các toán tử khác. Ví dụ, để gán giá trị 25 cho biến "age", ta sẽ viết: "age = 25;". Ta cũng có thể khai báo và gán giá trị cho biến cùng một lúc như sau: "int age = 25;".
3. Sử dụng biến: Sau khi gán giá trị cho biến, ta có thể sử dụng biến trong các phép toán, lời gọi hàm, điều kiện, vòng lặp và các tác vụ khác. Ví dụ, để in giá trị của biến "age", ta sẽ viết: "cout << age;". Lưu ý rằng ta phải sử dụng kiểu dữ liệu phù hợp để thực hiện các phép toán.
4. Thay đổi giá trị của biến: Ta có thể thay đổi giá trị của biến bằng cách gán một giá trị mới. Ví dụ, để tăng giá trị của biến "age" thêm 1, ta sẽ viết: "age = age + 1;". Ta cũng có thể sử dụng các toán tử viết gọn như "age += 1;" hoặc "age++;" để tăng giá trị của biến.
5. Khái niệm phạm vi biến: Mỗi biến có một phạm vi hoạt động trong chương trình. Phạm vi biến xác định nơi ta có thể truy cập và sử dụng giá trị của biến. Có hai loại phạm vi biến: phạm vi cục bộ và phạm vi toàn cục. Biến được khai báo trong một khối code cụ thể (như một hàm) chỉ có thể truy cập trong khối đó, đó là phạm vi cục bộ. Trong khi đó, biến được khai báo bên ngoài bất kỳ khối code nào (ví dụ: bên ngoài tất cả các hàm) có thể truy cập trong toàn bộ chương trình, đó là phạm vi toàn cục.
6. Quy tắc đặt tên biến: Khi đặt tên biến, có một số quy tắc cơ bản cần tuân thủ. Tên biến nên có ý nghĩa và mô tả đúng về thông tin mà biến đại diện. Nên sử dụng chữ cái, số và dấu gạch dưới trong tên biến. Tên biến không được bắt đầu bằng số và không được chứa các ký tự đặc biệt. Ngoài ra, không nên đặt tên biến trùng với các từ khóa hoặc tên hệ thống đã được định nghĩa trong ngôn ngữ lập trình.
Chúng ta sử dụng biến để lưu trữ và thao tác với dữ liệu trong quá trình thực thi chương trình. Với biến, ta có thể lưu trữ đối số đầu vào của chương trình, kết quả tính toán, các giá trị tạm thời và nhiều thông tin khác. Biến đạng là một khái niệm cốt lõi trong lập trình và giúp chúng ta tạo ra các chương trình mạnh mẽ và linh hoạt.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "biến dạng":
Chúng tôi đã đo lường các đặc tính đàn hồi và độ bền phá vỡ nội tại của màng graphene dạng đơn lớp tự do bằng phương pháp nén nano trong kính hiển vi lực nguyên tử. Hành vi lực-chuyển vị được diễn giải theo khung phản ứng ứng suất-biến dạng đàn hồi phi tuyến và cho ra độ cứng đàn hồi bậc hai và bậc ba lần lượt là 340 newton trên mét (N m\n –1\n ) và –690 Nm\n –1\n . Độ bền phá vỡ là 42 N m\n –1\n và đại diện cho sức mạnh nội tại của một tấm không có khuyết tật. Những thông số này tương ứng với mô đun Young là\n
Để phân tích thành công mối quan hệ giữa trình tự axit amin và cấu trúc protein, một định nghĩa rõ ràng và có ý nghĩa vật lý về cấu trúc thứ cấp là điều cần thiết. Chúng tôi đã phát triển một bộ tiêu chí đơn giản và có động cơ vật lý cho cấu trúc thứ cấp, lập trình như một quá trình nhận dạng mẫu của các đặc điểm liên kết hydro và hình học trích xuất từ tọa độ x-quang. Cấu trúc thứ cấp hợp tác được nhận diện dưới dạng các thuật toán cơ bản của mẫu liên kết hydro "xoắn" và "cầu". Các xoắn lặp lại là "xoắn ốc", các cầu lặp lại là "cột", các cột kết nối là "tấm". Cấu trúc hình học được định nghĩa theo các khái niệm về độ xoắn và độ cong trong hình học vi phân. "Tính chiral" của chuỗi cục bộ là sự xoắn của bốn vị trí Cα liên tiếp và có giá trị dương đối với xoắn ốc thuận tay phải và âm đối với cấu trúc β- xoắn lý tưởng. Các phần cong được định nghĩa là "bền". "Phơi nhiễm" dung môi được tính bằng số phân tử nước có thể tiếp xúc với một dư lượng. Kết quả cuối cùng là sự biên soạn cấu trúc chính, bao gồm các liên kết disulfide, cấu trúc thứ cấp và phơi nhiễm dung môi của 62 protein hình cầu khác nhau. Bài trình bày ở dạng tuyến tính: biểu đồ dải cho cái nhìn tổng quát và bảng dải cho các chi tiết của mỗi 10.925 dư lượng. Từ điển cũng có sẵn ở dạng đọc được bằng máy tính cho công việc dự đoán cấu trúc protein.
Vi khuẩn bám vào bề mặt và tập hợp lại trong một ma trận polyme giàu nước do chúng tự tổng hợp để tạo thành màng sinh học. Sự hình thành các cộng đồng bám đậu này và khả năng kháng kháng sinh khiến chúng trở thành nguyên nhân gốc rễ của nhiều bệnh nhiễm trùng vi khuẩn dai dẳng và mãn tính. Nghiên cứu về màng sinh học đã tiết lộ các nhóm tế bào biệt hóa, kết cấu với các thuộc tính cộng đồng. Những tiến bộ gần đây trong việc hiểu cơ sở di truyền và phân tử của hành vi cộng đồng vi khuẩn chỉ ra những mục tiêu trị liệu mới có thể cung cấp một giải pháp để kiểm soát nhiễm trùng do màng sinh học.
Chúng tôi đã kiểm tra giả thuyết rằng các biến thể số lượng bản sao mới phát sinh (CNV) có liên quan đến các rối loạn phổ tự kỷ (ASD). Chúng tôi đã thực hiện phân tích lai gen so sánh (CGH) trên DNA gen của bệnh nhân và các đối tượng không bị ảnh hưởng để phát hiện các biến thể số lượng bản sao không có trong các bậc phụ huynh tương ứng của họ. Các vùng gen ứng cử đã được xác thực bằng CGH độ phân giải cao hơn, xét nghiệm paternity, di truyền tế bào, lai huỳnh quang tại chỗ, và genotyping microsatellite. Các CNV de novo đã được xác thực có sự liên kết đáng kể với chứng tự kỷ (
Mục đích.—Phát triển hướng dẫn để cải thiện độ chính xác của xét nghiệm hóa mô miễn dịch (IHC) thụ thể estrogen (ER) và thụ thể progesterone (PgR) trong ung thư vú và khả năng sử dụng của các thụ thể này như là các dấu ấn tiên lượng.
Phương pháp.—Hiệp hội Y tế Lâm sàng Hoa Kỳ và Trường Cao đẳng Bác sĩ chuyên khoa Hoa Kỳ đã triệu tập một Ban Chuyên gia Quốc tế, tiến hành một đánh giá hệ thống và đánh giá tài liệu khoa học với sự hợp tác của tổ chức Cancer Care Ontario và phát triển khuyến nghị cho hoạt động IHC ER/PgR tối ưu.
Kết quả.—Có đến 20% của các xác định IHC hiện tại về xét nghiệm ER và PgR trên toàn thế giới có thể không chính xác (âm tính giả hoặc dương tính giả). Phần lớn các vấn đề với xét nghiệm đã xảy ra do sự thay đổi trong các biến số tiền phân tích, ngưỡng dương tính, và tiêu chí diễn giải.
Khuyến nghị.—Ban đề nghị rằng trạng thái ER và PgR nên được xác định trên tất cả các trường hợp ung thư vú xâm lấn và các tái phát ung thư vú. Một thuật toán xét nghiệm phụ thuộc vào hiệu suất thí nghiệm chính xác, dễ tái tạo được đề xuất. Các yếu tố để giảm đáng tin cậy sự biến đổi của phép thử được chỉ ra. Người ta khuyến cáo rằng các xét nghiệm ER và PgR được coi là dương tính nếu có ít nhất 1% hạt nhân khối u dương tính trong mẫu thử nghiệm với sự hiện diện của phản ứng dự kiến của các đối chứng nội tại (các yếu tố biểu bì bình thường) và các đối chứng ngoài. Sự vắng mặt của lợi ích từ điều trị nội tiết đối với phụ nữ có các trường hợp ung thư vú xâm lấn ER âm tính đã được xác nhận trong các tổng quan lớn của các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên.
Phân loại rotavirus nhóm A hiện nay dựa trên các đặc điểm phân tử của hai protein lớp ngoài, VP7 và VP4, và protein lớp giữa, VP6. Do sự tái sắp xếp của tất cả 11 đoạn gene rotavirus đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự đa dạng của rotavirus trong tự nhiên, một hệ thống phân loại dựa trên tất cả các đoạn gene rotavirus là cần thiết để xác định các gene nào ảnh hưởng đến giới hạn phạm vi ký chủ, sự nhân lên, và độ độc của rotavirus, cũng như để nghiên cứu dịch tễ học và tiến hóa của rotavirus. Để thiết lập hệ thống phân loại này, các trình tự gene mã hóa cho VP1 đến VP3, VP6, và NSP1 đến NSP5 đã được xác định cho các chủng rotavirus người và động vật thuộc các kiểu gene G và P khác nhau ngoài các dữ liệu sẵn có, và chúng được sử dụng để xác định mối quan hệ phát sinh loài giữa tất cả các gene rotavirus. Dựa trên các phân tích phát sinh loài này, các giá trị cắt giảm sự tương đồng gen thích hợp đã được xác định cho từng gene. Đối với gene VP4, giá trị cắt giảm nucleotide 80% hoàn toàn tương ứng với 27 kiểu gene P đã được thiết lập. Đối với gene VP7, giá trị cắt giảm nucleotide 80% chủ yếu trùng với các kiểu gene G đã thiết lập nhưng đã xác định thêm bốn kiểu gene khác biệt, gồm các chủng rotavirus chuột hoặc chim. Phân tích phát sinh loài của các gene VP1 đến VP3, VP6, và NSP1 đến NSP5 đã cho thấy sự tồn tại của 4, 5, 6, 11, 14, 5, 7, 11 và 6 kiểu gene, tương ứng, dựa trên các giá trị cắt giảm nucleotide lần lượt là 83%, 84%, 81%, 85%, 79%, 85%, 85%, 85% và 91%. Theo dữ liệu này, một danh pháp cải thiện cho các chủng rotavirus được đề xuất. Hệ thống phân loại mới cho phép nhận diện (i) các kiểu gene khác biệt, có thể theo các con đường tiến hóa riêng biệt; (ii) các sự chuyển giao giữa các loài và vô số sự kiện tái sắp xếp; (iii) một số cấu trúc gene cho thấy (a) nguồn gốc chung giữa các chủng rotavirus dạng Wa ở người và lợn và (b) nguồn gốc chung giữa các chủng rotavirus dạng DS-1 ở người và bò. Các liên kết tiến hóa chặt chẽ này giữa rotavirus người và động vật nhấn mạnh nhu cầu giám sát đồng thời rotavirus ở động vật và người.
Khả năng kháng thuốc trừ sâu cao do acetylcholinesterase (AChE) không nhạy cảm đã xuất hiện ở muỗi. Một đột biến đơn lẻ (G119S của gen
Các phản ứng biến đổi diazo được xúc tác bởi vàng thể hiện tính phản ứng và tính chọn lọc rất đặc trưng so với các kim loại quý khác. Bài tổng quan này sẽ tóm tắt các phản ứng biến đổi của các hợp chất α-diazo-carbonyl được xúc tác bởi vàng.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10